Tác dụng quả gấc dùng làm gì ? Thành phần trong quả gấc gồm lượng beta-caroten cao gấp đôi cà rốt.
Sử dụng dầu gấc được cho là có chức năng tốt phòng chống thiếu vitamin, tăng cường khả năng miễn dịch, sức đề kháng cơ thể khoẻ mạnh hơn, thêm tác dụng chống oxy hóa, chống lão hóa tế bào…
Chính vì vậy, tác dụng quả gấc bổ sung nhiều dưỡng chất giúp khỏe đẹp hơn.
1.Cách nhận biết đặc điểm cây gấc và quả gấc
Gấc là một cây thực phẩm quý đặc biệt của Việt Nam, có danh pháp khoa học momordica cochinchinensis, thuộc chi mướp đắng. Hoa có sắc vàng.
Quả gấc có hình dáng tròn, sắc xanh, khi chín chuyển sang đỏ cam. Vỏ gấc có gai rậm nhọn mau. Bổ ra mỗi quả gấc thường có sáu múi, thịt gấc màu đỏ cam đậm, hạt màu nâu thẫm hoặc đen.
Việt Nam phân loại thường có 3 giống gọi là gấc nếp, gấc tẻ và gấc lai.Tác dụng quả gấc được sử dụng thường ngày trong ẩm thực lẫn y học.
2.Tác dụng quả gấc hỗ trợ chữa bệnh
Dựa theo nghiên cứu của các nhà khoa học chứng minh
Gấc đã được sử dụng lâu đời ở nước ta dùng làm thực phẩm, tuy nhiên việc nghiên cứu cây này thì mới chỉ được nghiên cứu trong những năm gần đây.
Vào năm 1988 – 1989 trong phạm vi chương trình trọng điểm quốc gia nghiên cứu thành phần dinh dưỡng 64D03 do GS.
Căn cứ giấy làm chủ nhiệm chương trình, thạc sĩ Phan Quốc Kinh cùng các cộng sự đã dành nhiều thời gian nghiên cứu các chế phẩm từ quả gấc. Mục địch làm các chất bổ sung dinh dưỡng thuộc đề mục 64D0305B.
Vào năm 1941, bộ môn dược liệu Đại học y dược Hà Nội đã bước đầu xác định màng đỏ xung quanh hạt gấc có chứa beta-caroten kèm theo tỉ lệ dầu thảo mộc rất cao.
Các nhà khoa học Đại học y Hà Nội và Đại học y dược Hà Nội thời điểm đó đã chứng minh dầu màng đỏ bao quanh hạt gấc có tác dụng tốt giống như vitamin A và có tác dụng tăng trọng cho độngvật và con người.
Vào năm 1951, giáo sư.Nguyễn Văn Đàn đã mang dược liệu này sang nghiên cứu tận nước Đức. Xác định ngoài thành phần ibeta-caroten thì quả gấc còn chứa lycopen một chất phòng chống lão hóa cực kỳ tốt.
Ở Việt Nam đã đầu tư sản xuất một số chế phẩm có chứa dầu màng gấc làm thuốc bổ, hỗ trợ điều trị suy dinh dưỡng cho trẻ em và nhiều bệnh liên quan đến mắt.
Trong khoảng thời gian 20 – 30 năm gần đây, các bác sĩ đã tin dùng dầu màng gấc để phòng và điều trị một số bệnh ung thư.
Phân tích hợp chất tốt có trong hạt gấc
Để chế biến thuốc, thực hiện sấy hay phơi khô cả hạt và màng gấc (lớp cơm bao quanh hạt) cho đến khi cầm hạt gấc không thấy dính tay nữa, tức đã se màng.
Tiếp theo lấy dao nhọn bóc lấy màng đỏ của bao quanh hạt gấc. Với màng này tác dụng dùng chế ra dầu gấc được ưa chuộng, vì thành phần chủ yếu là lycopen, alphatocopherol, beta-caroten…
Khi Beta-caroten vào cơ thể sẽ chuyển thành vitamin A tốt cho sức khỏe. Thành phần beta-caroten của gấc cao gấp hai cà rốt.
Dầu gấc có tác dụng phòng chống thiếu vitamin, tăng khả năng miễn dịch, tăng sức đề kháng , chống oxy hóa, chống lão hóa tế bào, có tác dụng dưỡng làm đẹp da…
Thành phần Lycopen có nhiều trong trái cây có màu đỏ như cà chua, đu đủ, cà rốt, ổi ruột đỏ… Trong trái gấc, hàm lượng lycopen đã được kết luận cao gấp 70 lần cà chua.
Dựa trên nghiên cứu dịch tễ học ở Mỹ về tác dụng của lycopen chỉ ra rằng ở những vùng người dân ăn nhiều loại trái có chứa lycopen thì tỷ lệ ung thư ống tiêu hóa thấp hơn những người dân ăn không ăn hoặc ít ăn. Tỷ lệ chết vì bệnh ung thư cũng giảm tới tận 50%.
Nghiên cứu kéo dài nhiều năm liền trên một nhóm đối tượng ăn ít nhất hai lần nước sốt cà chua/tuần cho thấy nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt giảm 35%.
Lycopen còn có nhiều tác dụng trong điều trị các bệnh viêm gan, xơ gan, hạ huyết áp, rối loạn lipid máu, chống khô mắt, …
3.Tác dụng to lớn của hạt gấc
Các sách cổ ngày xưa viết, nhân hạt gấc vị đắng, hơi ngọt, tính ôn, hơi độc, vào 2 kinh can và đại tràng, tác dụng chữa trị mụn nhọt, tiêu thũng. Ngoài ra, nó còn được dùng trong những trường hợp ngã, bị thương, sang độc, phụ nữ sưng vú, hậu môn sưng.
Nhiều gia đình có thói quen để dành hạt gấc sống hoặc đã qua đồ xôi gấc. Khi cần dùng thì chặt đôi đem mài với ít rượu hoặc giấm để bôi chỗ sưng tấy do mụn nhọt, dùng bôi nhiều lần trong ngày, cứ khô lại bôi; rất nhanh chóng đỡ. Giã nhân hạt gấc với một ít rượu, đắp lên chỗ vú sưng, đắp liên tục, ngày thay thuốc 1 lần, rất tốt.
Ngoài ra, gấc còn có rất nhiều tác dụng khác nữa:
Chữa chai chân lấy nhân hạt gấc, giữ cả màng hạt, giã nát, thêm một ít rượu trắng 35-40 độ, bọc trong một cái túi nilon. Đem dán kín miệng túi, khoét một lỗ nhỏ rộng gần bằng chỗ chai chân, buộc vào nơi tổn thương, 2 ngày thay thuốc . Liên tục băng cho đến khi chỗ chai chân rụng ra (khoảng 5-7 ngày sẽ có kết quả).
Chữa sang chấn đụng giập trong những trường hợp bị ngã, bị thương, tụ máu: Dùng hạt gấc đốt vỏ ngoài cháy thành than (nhân bên trong chỉ vàng, chưa cháy), cho vào cối giã nhỏ, cứ khoảng 30-40 hạt thì cho 400-500 ml rượu vào ngâm để dự trữ dùng dần. Dùng rượu ngâm hạt gấc bôi vào chỗ sang chấn, có tác dụng tốt gần như mật gấu.
Nghiên cứu hiện đại cho biết trong nhân hạt gấc có 55,3% chất lipít (béo), 16,6% chất protit (đạm), 1,8% tanin, 2,8% xenluloza, 6% nước, 2,9% chất vô cơ, 2,9% đường, 11,7% chất khoáng… Ngoài ra còn có một lượng nhỏ các men photphotoba, invedaxa…
4.Tổng hợp những lưu ý khi sử dụng hạt gấc chữa bệnh
Ở đại học Y dược TP.HCM đã dày công nghiên cứu khoa học về thành phần dược tính của cao lỏng hạt gấc, xác định độc tính cấp LD50 (liều dùng hạt gấc khi cho chuột uống sẽ làm 50% bị chết), rất quan trọng để người bệnh và thầy thuốc lưu tâm khi sử dụng hạt gấc làm thuốc cần đúng liều lượng đúng theo chỉ định của bác sĩ.
Nếu sử dụng dưới liều 20g/kg không làm chuột chết, còn dùng trên 180g/kg tất cả chuột đều chết. LD50 tính bằng phương pháp Behrens và Karber là 92,27g bột hạt gấc/kg.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này tuy chưa thật sự toàn diện nhưng đã minh chứng nhận định hạt gấc có độc trong các sách thuốc đông y là có căn cứ.
Có độc tính thì liều lượng dùng phải đặc biệt chú ý. Sử dụng bôi bên ngoài, liều lượng chỉ nên 2–4g/ngày. Nếu dùng phải nướng chín hạt.
Đặc biệt chú ý, cần tránh sử dụng hạt gấc làm thuốc dùng trong qua đường uống một cách bừa bãi, chưa có sự tư vấn của thầy thuốc.